Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2011

Sắc tứ Nghĩa Trủng tự


VĂN BIA CHÙA NGHĨA TRỦNG
          Đồng Dưỡng
Chùa Nghĩa Trung xưa tọa lạc thôn La Qua, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nay thuộc xã Điện Minh, huyện Điện Bàn.
Theo một tấm văn bia năm Khải Định thứ 7 cho biết nguyên chùa là một Nghĩa Trủng từ 義塚祠thiết lập để thờ âm linh hoang mộ. Vào năm Tự Đức thứ 18 [1864] mới được sắc phong danh tự. Từ đó đến nay đã trải qua nhiều lần tu sửa. Năm Khải Định thứ 7 (1922), Đốc Bộ Đường Từ Tướng Công Liệt Hiến Đại Nhân đã trích lương bổng cùng thiền sư Đương Khánh khuyến hóa thập phương, thỉnh tượng, đúc chuông, dựng chùa, vừa để thờ Phật vừa thờ âm linh cô mộ.  
                             cổng chùa Nghĩa Trủng

Năm 1950, do chiến tranh, chùa bị đốt cháy, chỉ còn lại cổng và một số bài vị được đặt trước sân. Từ đó, chùa bị bỏ hoang không người hương hỏa. Năm 1956, Thượng tọa Trí Giác đứng ra trùng tu lại chùa và Giáo Hội cung thỉnh thầy Long Hải về trụ trì. Chùa được tu bổ dần dần từ nhà tổ, phương trượng cho đến nhà linh.
Chùa làm theo kiểu nhà ba gian, hai chái. Gian giữa thờ phật Thích Ca, gian hai bên thờ bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền. Hai bên cửa đi vào có lập bàn thờ hai vị Hộ Pháp, Già Lam. Hai tượng này được làm theo kiểu xưa, có thể di tích của ngôi chùa cũ. Hai bên tiền đường lập hai gác chuông trống. Khi tái thiết, pháp khí không còn bảo tồn, nhân quả chuông từ chùa Vua mang về tỉnh hội nên quí sư mới đưa về đây an trí tại gác chuông để sớm chiều khua đánh. Theo lạc khoản, chuông chùa Vĩnh An (chùa Vua) được đúc năm Minh Mệnh thứ 5 (1824), đến năm Tự Đức thứ 16 thì cho đúc lại. Như thế, chuông được đúc năm Tự Đức thứ 16. Chuông có kết cấu khác xa với các chuông tại các tổ đình. Phần đầu tóp lại, phần bụng rộng to, trông giống pháp khí ở các lăng miếu.
Phía trước chùa có một cổng làm theo kiểu cổ dạng nhất môn, trên có một cái gác nhìn vào chùa, thờ tượng Tiêu Diện đại sĩ và nơi để các tượng hư bể.
Chùa trãi qua các đời trụ trì như thiền sư Đương Khánh, Trí Thông, Long Hải và đến nay là thượng tọa Thích Như Thùy. Công đức lớn lao vẫn là hai vị Đương Khánh và Long Hải. Thiền sư Đương Khánh là người đầu tiên trụ trì và ngài đã trùng kiến khá nhiều các hạng mục công trình, đưa Nghĩa Trủng từ một miếu trở thành ngôi già lam trong khu vực tỉnh thành. Ngài cùng hội tập nhiều vị tại gia cư sĩ lập các phổ để sớm hôm hương hỏa cho chùa. Đến đại sư Như Thính Trí Thông trụ trì được mấy năm thì bị chiến tranh đốt phá, đại sư lánh nạn, chùa không người hương hỏa. Khi tái thiết thì hòa thượng Long Hải được bổ nghiệm về trụ xứ. Ngài xây dựng Nghĩa Trủng thành một ngôi chùa nổi tiếng tại huyện Điện Bàn.  
Qua khảo sát tư liệu, chùa còn bảo tồn 5 văn bia, hai tấm đặt hai bên phía sau cổng tam quan, hai tấm gắn vào thân tường gần lầu chuông, lầu trống và một tấm được gắn trong khu tháp thiền sư Đương Khánh[1]. Cả 5 bia được làm bằng chất liệu đá non nước, màu trắng. Bia thuộc loại bia dẹp, một mặt để khắc chữ, một mặt gắn vào thân tường nên chỉ sử dụng được một mặt khắc chữ. Các bia đều có niên đại muộn, bia có niên đại sớm nhất là năm Khải Định thứ 7, còn các văn bia khác thì thuộc niên hiệu Bảo Đại. Hai bia trước cổng, lòng văn giống nhau, chỉ khác phần công đức, còn bia đặt tại gác trống thì thuần chép danh sách các tín chủ cúng tiền vào chùa. Khai thác các văn bia ở đây, chúng ta làm sáng tỏ được lịch sử ban sơ và vị trí của ngôi chùa nằm về phía đông của tỉnh thành. Tham khảo tư liệu về Dinh Trấn Thanh Chiêm thời các chúa Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Quảng Nam cho biết chùa Long Hưng cũng nằm về phía đông dinh trấn. Như thế, các thế hệ tiền nhân muốn lập chùa về phía đông có thể để trấn yểm các thành xưa chăng?
Trong văn bia, chúng tôi thấy xuất hiện các phổ như Thành Nữ, Từ Chánh, Thành Tín, Chương Tín. Các phổ này đều thờ cúng ngài Thập Điện. Theo cách hiểu thì Phổ chính là tập hợp một số thiện tín có cùng tín ngưỡng thờ một vị thần, thánh hay Phật nào đó. Khi đến các ngày vía, sóc, vọng thì họ tập trung cúng tế. Ở các chùa tổ như Chúc Thánh, Phước lâm đều có các phổ.
CÁC BÀI VĂN BIA
1.     Bia bên phải Tam Quan
Bia khổ 58x100 cm. Lòng bia kết cấu có 9 dòng, mỗi dòng 44 chữ, dòng thứ nhất, thứ 4 và dòng lạc khoản được viết đài lên, chữ viết chân phương, rõ, đẹp. Bia không có tiêu đề, không đề tên người soạn, được khắc đá vào năm Quí Dậu niên hiệu Bảo Đại thứ 8 (1923).
Phiên âm:
Sắc tứ Nghĩa Trủng Tự tại tỉnh thành đông môn ngoại, nguyên tiền phụng sự hoang mộ chư vong linh liệt vị. Tiền niên, Thừa Tỉnh Đốc Bộ Đường Từ Tướng Công Liệt Hiến Đại Nhân phát Bồ Đề tâm quyên ngân tu bổ kiêm phụng phật thánh, tự sở trang nghiêm. Cận niên lai, Quế Sơn huyện vệ kiểm thảo sung lại mục Tôn Thất Kham, trụ trì Phan Mai hiệu Đương Khánh đẳng, dữ cố Kinh Lịch hồi hưu Nguyễn Thục Thái thành tâm hiểu khuyến tín nữ nhân đẳng, nguyện cúng ngân nguyên lập Thành Nữ phổ. Thường niên trí cúng thánh đản Thập Điện đẳng lễ. Thực thuộc từ thiện hữu tâm, thỉnh minh thạch hậu lai giả khuyến hà nhân thị cúng ngân can kế hậu kê:…Bảo Đại bát niên tuế thứ Quý Dậu, tứ nguyệt cát nhật[2].
Dịch nghĩa :
Chùa Sắc Tứ Nghĩa Trủng tại phía Đông tỉnh thành, vốn thờ các vong linh mộ hoang. Năm trước, Thừa Tỉnh Đốc Bộ Đường Từ Tướng Công Liệt Hiến Đại Nhân phát tâm Bồ Đề quyên góp ngân tiền để tu bổ và phụng thờ Phật Thánh, chùa sở trang nghiêm. Gần đây, Quế Sơn huyện Kiểm Thảo vệ sung Lại Mục là Tôn Thất Kham, trụ trì Phan Mai hiệu Đương Khánh, cùng với cố kinh lịch hưu trí là Nguyễn Đôn Thái thành tâm khuyến hóa, các tín nữ cùng quyên góp tiền của lập phổ Thành Nữ, hằng năm trí cúng lễ thánh đản các vị Thập Điện.. Thật là có tâm làm việc thiện, xin khắc vào bia đá để lại mai sau, danh sách những người cúng tiền được kê ra dưới đây:
Kê:
Từ Chánh Phổ, Phổ chủ Mai Thị Dần pháp danh Như Tại .
Cúng 3 đồng: Nguyễn Hứa Thị Tùng, Nguyễn Thị Mọi pháp danh Như Hải,Vũ Thị Bổn pháp danh Như Phụng.
Cúng 2 đồng: Phạm Thị Mai pháp danh Như Khai, Nguyễn Thị Tiền phap danh Như Từ, Nguyễn Thị Đăng pháp danh Ấn Vinh, Nguyễn Thị Mùi pháp danh Như 0, Phạm Thị Tạo pháp danh Như Tảo, Phạm Thị Thơ pháp danh Như Thành, Phạm Thị Lọ pháp danh Như Lem, Tô Thị Thuyên, Đinh Thị Đào, Phạm Thị Diện, Nguyễn Thị Sung, Nguyễn Thị Cư, Nguyễn Thị Huyền pháp danh Như Suất, Tô Thị Thái pháp danh Như Chương, Phạm Thị Hưng, Mạc Thị Kiến, Đỗ Thị Sanh, Mạc Thị Phương, Lê Thị Chúc pháp danh Như Thọ, Ngô Thị Hương, Nguyễn Thị Nuôi, Nguyễn Thị Được, Nguyễn Thị Chút, Phạm Thị Được, Trần Thị Gần pháp danh Như Thường, Nguyễn Thị Tư pháp danh Như Ý,Lê Thị Thiết, Ngô Thị Hy pháp danh Như Thành, Nguyễn Thị Lạc, Lê Thị Nga pháp danh ấn Nhật, Đoàn Thị Lành, Nguyễn Thị Sa, Trương Thị Lý, Lê Thị Trùng pháp danh Như Mật.
     Niên hiệu Bảo Đại thứ 8, ngày lành tháng tư năm Quý Dậu.
2.     Bia bên trái Tam Quan
Bia khổ 62x100cm, lòng bia kết cấu gồm 10 dòng, mỗi dòng chữ không nhất định, lời văn khắc chữ nhỏ hơn phần công đức của mọi người. Lời văn giống nguyên với văn bia ở trên, chỉ khắc danh sách cúng tiền.  
Phiên âm:
Sắc tứ Nghĩa Trủng tự tại tỉnh thành đông môn ngoại, nguyên tiền phụng sự hoang mộ chư vong linh liệt vị. Tiền niên, Thừa Tỉnh Đốc Bộ Đường Từ Tướng Công Liệt Hiến Đại Nhân phát Bồ Đề tâm quyên ngân tu bổ kiêm phụng phật thánh, tự sở trang nghiêm. Cận niên lai, Quế Sơn huyện vệ kiểm thảo sung lại mục Tôn Thất Kham, trụ trì Phan Mai hiệu Đương Khánh đẳng, dữ cố kinh lịch hồi hưu Nguyễn Thục Thái thành tâm hiểu khuyến tín nữ nhân đẳng, nguyện cúng ngân nguyên lập thành nữ phổ, thường niên trí cúng thánh đản Thập Điện đẳng lễ. Thực thuộc từ thiện hữu tâm, thỉnh minh thạch hậu lai giả khuyến hà nhân thị cúng ngân can kế hậu kê:…Bảo Đại bát niên tuế thứ Quý Dậu, tứ nguyệt cát.
Dịch nghĩa:
Chùa Sắc Tứ Nghĩa Trủng tại phía Đông tỉnh thành, vốn thờ các vong linh mộ hoang. Năm trước, Thừa Tỉnh Đốc Bộ Đường Từ Tướng Công Liệt Hiến Đại Nhân phát tâm Bồ Đề (1) quyên góp ngân tiền để tu bổ và phụng thờ Phật Thánh, chùa sở trang nghiêm. Gần đây, Quế Sơn huyện Kiểm Thảo vệ sung Lại Mục là Tôn Thất Kham, trụ trì Phan Mai hiệu Đương Khánh, cùng với cố kinh lịch hưu trí là Nguyễn Đôn Thái thành tâm khuyến hóa, các tín nữ cùng quyên góp tiền của lập phổ Thành Nữ, hằng năm trí cúng lễ thánh đản các vị Thập Điện (2). Thật là có tâm làm việc thiện, xin khắc vào bia đá để lại mai sau, danh sách những người cúng tiền được kê ra dưới đây:
Cúng 3 đồng kể:
Thành Tín phổ, chủ phổ Lưu Thị Được pháp danh Chơn Thành, Nguyễn Thị Hậu pháp danh Chơn Phước, Trương Thị Tương, Trương Thị Đinh, Trần Thị Kiến pháp danh Như Phát, Thái Thị Sửu pháp danh Như Bảo, Hồ Thị Tuyết pháp danh Như Sương, Nguyễn Thị Nhỏ pháp danh Như Thạnh,Lê Thị Xán pháp danh Như Lan,Ngô Thị Thôi pháp danh Như Nhạc,Trần Thị Đĩnh pháp danh Như Định, Lưu Thị Lạc pháp danh Như Tuyền, Phạm Thị Dậu pháp danh Như Long, Lưu Thị Hôn pháp danh Như Công, Hồ Thị Khuông pháp danh Như Đồng, Nguyễn Thị Cực pháp danh Như Thừa,Trần Thị Diên pháp danh Như Quảng, Lưu Thị No pháp danh Như Cẩn, Lê Thị Thiệu pháp danh Như Kế, Nguyễn Thị Quý tức Phú,Mai Thị Dụng tức Từ, Thẩm Thị Thi tức Cử, Đỗ Thị Triều tức Lang, Huỳnh Thị Hài pháp danh Như Định, Võ Thị Truật pháp danh Như Thúc, Lưu Thị Trả Thị Kinh, Trịnh Thị Pha pháp danh Như Điền, Trương Thị Tháp Như Đồng, Phạm Hạnh pháp danh Như Hương, Đinh Thị Chuyên, Mai Thị Lý pháp danh Như Lý,Văn Thị 0 pháp danh Như Cưu, Nguyễn Thị Kỷ Pháp danh Như Huy, Nguyễn Thị Quý pháp danh Như Hoà, Nguyễn Thị Giáp, Trần Thị Thạnh tức Hưng, Hồ Thị Xưng, Đặng Thị Hoài.
Tổng cộng đã cúng được 100 đồng, trong đó trích 50 đồng để lo ngày kị của hiển khảo hiển tỉ, 50 đồng còn lại để phụng dưỡng người già và hậu sự của họ sau khi mất. Riêng ngày kị của bà họ Lưu, pháp danh Chân Thành thì do xã Dưỡng Mông, Tổng Xuân Phú trung, huyện Quế Sơn phụng tự.
Niên hiệu Bảo Đại thứ 8, ngày lành tháng tư năm Quý Dậu.
3.     Bia ở Lầu Chuông
Khổ 55x74cm, lòng bia có 19 dòng, mỗi dòng trung bình 33 chữ, khắc rõ, chân phương. Bia không đề, khắc năm Khải Định thứ 7. Đây là văn bia có niên đại sớm nhất của chùa. Bia ghi chép khá kỹ về quá trình hình thành chùa Nghĩa Trủng.
 Phiên âm:
Nghĩa Trủng từ, sở tại tỉnh thành môn chi Đông, nguyên tòng hoang trủng, bàng tạo xuất chuyên tự âm linh. Tự Đức thập bát niên, phụng sắc tứ danh tự nhi tuân tuần sùng tu, lịch chí kim nhật. Bản niên Đốc Bộ Đường Từ Tướng Công Liệt Hiến Đại Nhân trích công tác ngân tịnh tăng khuyến cúng, thỉnh tượng chú chung, thiết tự, trường cấu hoành gia, phụng sự âm linh thả kiêm tự phật, phả lãm trang nghiêm. Kỳ quan viên tịnh chư nhân đẳng lạc cúng thành tâm,  sở đương lặc thạch dĩ chí, kê: … Khải Định thất niên, thập nguyệt cát nhật huề[3].  
Dịch nghĩa:
Nhà thờ Nghĩa Trủng toạ lạc tại cửa Đông tỉnh thành, nguyên trước hoang trủng, lập nên để phụng thờ âm linh. Vào năm Tự Đức thứ 18 [1864] mới được sắc phong thành nơi thờ tự nổi tiếng. Từ đó đến nay đã trải qua nhiều lần tu sửa. Năm nay, Đốc Bộ Đường Từ Tướng Công Liệt Hiến Đại Nhân đã trích lương bổng cùng tăng khuyến cúng, thỉnh tượng, đúc chuông, dựng chùa, làm dài nhà ngang để thờ âm linh vả kiêm phụng phật, trông rất trang nghiêm. Các quan viên và mọi người cúng dường, thành tâm khắc vào bia đá.
Kê:
Thự Hiệp Tả Lãnh Tổng Đốc họ Từ 40 đồng.
Bố Chính Tôn Thất 22 đồng.
Án Sát Nguyễn Văn 20 đồng.
Phó Đề Đốc Nguyễn Văn 5 đồng.
Tổng Đốc Nguyễn Khoa Phu Nhân 5 đồng.
Nội Các Tham Tá Phạm Phu Nhân 5 đồng.
Quan viên các huyện tám phủ: Điện Bàn Tôn Thất 0, Tam Kỳ Trương Như Lãnh, Thăng Bình Nguyễn Phan, Tiên Phước Tôn Thât Củng, Đại Lộc Đinh Loan Tường, Hoà Vang Phan Mai Tỷ, Duy Xuyên Trần Đình Kiểm, Quế Sơn Nguyễn Hữu 0, cúng tiền 20 đồng.
Phiên ty viên nhân thị độc trương tố, Thông Phán Trần Tiễn Thuyên, Thị Độc Nguyễn Sinh Nhiếp, Thị giảng…, Trứ tác 0 Hoàn Pháo,Trứ tác Nguyễn Đình Nẫm, Tu soạn Phạm Đàm, Tu soạn Vũ Uý, Tu soạn Ưng Lãnh, Bang tá Nguyễn Khoa Liêm, Biên Tu Nguyễn Dao, Biên tu Bùi Thức Tùng, Thất phẩm Đoàn Xuân Thuý là giáo viên trường Pháp Việt, Kiểm tịch Trương Quang Diễn, Bát phẩm Nguyễn Đôn Thái, Kiểm tịch Hồ Khẩn, Kiểm tịch Trần Văn Kiểm, Kiểm bạ Tôn Thất Kham cùng với Trần Thúc Thanh, Huỳnh Củng kính cúng, Thừa phái cửu phẩm Trần Thế, Thừa phái Lê Tường, Cửu phẩm Trương Xuân Huy, Tự sinh Trương Trí cùng cúng s tiền là 64 đồng 5 hào.
Niết ty viên nhân kinh lịch Phan Tiến Khánh, Tu soạn Lương Phan Khuê, Tu soạn Nguyễn Kiến Tập, Tu soạn Hồ Hoàng, Biên tu Vũ Hoàn, Kiểm tịch Nguyễn Đề, Kiểm tịch Nguyễn Khoa 0, Bang tá Phạm Duy Thụ, Kiểm thảo Nguyễn Kiêm, Cửu phẩm Phạm Như Triêm, Cửu phẩm Trần Phan cộng cúng. Tỉnh cơ viên nhân chánh quản Phạm Quý, Phó quản Tôn Thất  0, Phó quản Nguyễn Văn Hoạt, Phó quản Nguyễn Như Khang, Chánh đội Lê Hà, Chánh đội Nguyễn Mai, Phó đội Nguyễn Thạc Ngân,Phó đội Lê Viết Điền, Đội trưởng Lê Tùng,Cấp bằng Vũ Lịch, Cấp bằng Vũ Chí, Cấp bằng Lê Dư, Dịch mục Nguyễn  0 cùng cúng số tiền là 15 đồng 3 hào.
Bát phủ huyện nha thuộc kiểm thảo Hồng Mại, Biên tu Lê Trọng Bỉnh, Biên tu Phạm Hữu Mẫn, Kiểm tịch Mai Khắc Giáo, Kiểm tịch Lê Bá Thiêm, Bát phẩm Chu Văn Mậu, Bát phẩm Huỳnh Trọng Khánh, Bát phẩm Nguyễn Tùng, Kiểm bạ Nguyễn Đình Tồn, Kiểm bạ Huỳnh Nguyên Phù, Bát phẩm Phan Hoàng Quyển cung phụng, Nguyễn Tuệ kính cúng, Trần Châu kính cúng, Ngô Mạnh Nhi, Đức chiếu Huỳnh Đức Dụ, Đức chiếu Hồ 0, Đức chiếu Huỳnh Văn Luyện, Đức chiếu Trần Hạc, Đức chiếu Nguyễn Vận, Đức chiếu Trần Sách, Cửu phẩm Trần Đức Thụ, Cửu phẩm Lê Quang Diệu, Cửu phẩm Trần 0, Cửu phẩm Dương Văn Bình, Cửu phẩm Trần Huỳnh Mậu cùng cúng số tiền là 42 đồng. Lý trưởng Trần Hữu Độ ngũ mao, Đỗ Thị  0 cúng 1 đồng.
Ở trên là tất cả số tiền cúng được tổng cộng 265 đồng 3 hào.
Niên hiệu Khải Định thứ bảy, ngày lành tháng 10 kính khắc.
4. Bia Lầu Trống
Bia có 15 dòng, số chữ không nhất định trong các dòng. Bia này ghi chép công đức là chính, không có lòng văn. Bia lập năm Bảo Đại thứ 10. Bia này chúng tôi chỉ dịch nghĩa, không cần phiên âm. Bởi vì, chúng chỉ chép phần công đức, không có giá trị văn chương cho mấy.
Dịch Nghĩa:
Các quan viên, mọi người Phổ Chương Tín chùa Nghĩa Trủng, ghi chép số tiền đã cúng kính cẩn khắc vào bia đá để lưu lại lâu dài.
Kinh lịch Lê Ngọc Lưu 2 đồng.
Tu soạn Tôn Thất Kham 4 đồng.
Biên tu Trương Quang Diễn 3 đồng.
Biên tu Trần Thúc Tĩnh.
Cúng 2 đồng:
Kiểm thảo Lê Tường, Văn Phú Lạc, Chánh tổng Nguyễn Nho Đề, Cửu phẩm Nguyễn Đình Hội, Thị chiếu Trần Sách tứ nguyên, Phó tổng Đỗ Văn Tạo.
Cúng 3 đồng:
Lý trưởng Trần Hữu Độ, Phó tổng Đặng Cẩn, Giám thủ Lê Bộ, Ty lễ Lưu Chương, Thủ sắc Lưu Luyện, Thuyền chủ Vũ Nhã, Bát phẩm Vũ Lịch
Cúng 2 đồng:
 Bát phẩm Nguyễn Văn Quang, Cửu phẩm Nguyễn Văn Định, Cửu phẩm Nguyễn Đình Hiên, Cửu phẩm Nguyễn Hữu Doanh, Cửu phẩm Nguyễn Cống, Ty lễ Phạm Bộ, Chánh tổng Lê Hướng, Phó tổng Đỗ Văn Như, Thông lại Phạm Phú Mỹ, Hội viên Nguyễn Trương, Lý trưởng Võ Tiến, Hương lão Nguyễn Văn Diệu, Hương lão Nguyễn Văn Triết, Hương lão Nguyễn
Văn Tích, Hương lão Vũ Mão, Hương lão Huỳnh Đức Mậu, Hương lão Phạm Văn Chất, Ty lễ Đinh Sửu, Lão phạm Doãn Chấp, Lão Phạm Phú Ân, Hương bản Nguyễn Giảng, Hương kiểm Đinh Xuyết, Hương mục Phạm Tiệm, Phòng kiểm Lê Sân, Dịch mục Trương Khách, Phạm Hoạt, Nguyễn Văn Ninh, Vũ Cảnh, Nguyễn Doãn, Phan Hợp, Nguyễn Văn Bích, Lê Cố tứ nguyên, Cửu phẩm Phạm Hựu.
cúng 2 đồng:
Lý trưởng Nguyễn Đình Khôi, Ty niết Nguyễn Vụ, Nguyễn Công Hội, Nguyễn Tiến Nhất, Lê Hồ Nguyễn Đồng.
Các phổ viên cùng với 58 viên nhân, tổng số tiền trong phổ cúng được là 119 đồng.
Sau đây là danh sách những người cúng tiếp theo được khắc riêng:
Cúng 2 đồng:
Đoàn Bảng, Thất phẩm Nguyễn Công Nho, Khố trưởng Mạc Như Thư, Nguyễn Văn Châu, Vũ Văn Quảng, Phó tổng Nguyễn Dật.
Niên hiệu Bảo Đại thứ 10, ngày lành tháng giêng.
Chương Tín phổ, Phổ trưởng thị chiếu Trần Sách, Chứng minh trú trì Phan Mai, Đại biểu phó tổng Đỗ Tạo cùng bổn phổ đồng kính lập.



[1] Văn bia tháp thiền sư  Đương Khánh, chúng tôi đã có bài nghiên cứu trong Văn Hóa Phật Giáo.
[2] Nguyên văn: 敕賜義塚寺在省成東門外原前奉事荒墓諸亡靈列位前年承省督部堂徐相公列憲大人發菩提心捐銀修補今奉佛聖寺所莊嚴近年來桂山縣衙檢討充吏目尊室堪住持潘枚號當慶等與故經歷回休阮孰彩誠心曉勸信女人等願供銀元立成女譜常年置供聖誕十殿等礼寔属慈善有心請銘石以為後來者勸所有何人氏樂供銀干列計如左三元以下計. …保大八年歲次癸酉四月吉日
[3]Nguyên Văn: 義塚祠所在省城門之東原從荒塚旁造出專寺陰靈嗣德十八年奉敕賜名嗣而遵循崇修歷至今日本年督部堂徐相公列憲大人摘工作銀並增勸供請像鑄鐘設寺長構橫家奉事陰靈且兼祀佛領觀莊嚴其官員省請人等樂供誠心所當勒石以誌計….啟定七年十月吉日鑴  


Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2011

LỊCH TRUYỆN TỔ ĐỒ

PHÁT HIỆN BẢN LỊCH TRUYỆN TỔ ĐỒ TẠI CHÙA THIÊN HÒA
                                                                       Đồng Dưỡng
Trong một lần đọc sách hán nôm tại Hà Nội, chúng tôi tiếp xúc văn bản “Diệm Khẩu Du-già Tập Yếu Thí Thực Khoa Nghi” được khắc ván tại chùa Thiên Hòa, Huế. Lần theo thông tin và nhờ sự giới thiệu của một thân hữu tại đây, chúng tôi được biết chùa vẫn còn tồn tại. Chùa xưa thuộc địa phận xã Dương Xuân, huyện Hương Trà nay nằm về Phường Đúc, Thành phố Huế. Chùa nằm trên một quả đồi, cây cối xanh tốt xung quanh. Từ ngoài nhìn vào, trông chùa rất nhỏ, có thể chùa giữ theo dáng xưa, chính điện có ba gian, phía trước thờ Phật, thánh, phía sau thờ tổ và chư hương linh bổn tự. Chùa do thiền sư Khánh Thụy Minh Tính khai sơn vào cuối thế kỷ XIX. Theo long vị, thiền sư thuộc đời 38 tông Tào Động[1]. Hiện vẫn còn một cổ tháp, cách chùa khoảng 200m về phía tay phải thờ thiền sư. Ngôi tháp cao ba tầng, phần thân và tường có một số bị đổ, văn bia mờ chỉ đọc được tên là Khánh Thụy. Ngoài ra, chưa biết gì về tông tích của thiền sư.

Kế thế trụ trì là đại sư Tánh Tình Nhất Xương. Trong bản in “Diệm Khẩu Du-già Tập Yếu Thí Thực Khoa Nghi” thì sư thuộc tông Tào Động, có thể đệ tử của thiền sư Khánh Thụy. Còn Thần chủ đề: “Lâm Tế chính tông đệ tam thập cửu thế, sùng hưng Thiên Hòa tự trụ trì húy Tánh Tình hiệu Nhất Xương đại sư giác linh tọa vị”. Dựa vào tên húy cùng đạo hiệu, chúng tôi đối chiếu với các thiền sư sống trong giai đoạn Minh Mệnh thì thấy có nhiều vị có chữ Húy là Tánh, hiệu bắt đầu chữ Nhất như thiền sư Tánh Thiên Nhất Định (chùa Báo Quốc, Từ Hiếu), Tánh Huệ Nhất Nguyên (chùa Huệ Lâm), Tánh Toàn Nhất Thể (chùa Bảo Lâm), Tánh Chiêu Nhất Niệm (chùa Báo Quốc), Tánh Thông Nhất Trí (chùa Từ Quang)…Các ngài đều là đệ tử của thiền sư Đạo Minh Phổ Tịnh, chùa Báo Quốc. Tra vào Hàm Long sơn chí, quyển 1, phần Phổ Tịnh hòa thượng pháp tự thì có tên thiền sư Tánh Tình Nhất Xương. Như thế, có thể thiền sư cầu pháp với tổ Đạo Minh Phổ Tịnh. Sách Hàm Long sơn chí có chép bài kệ phú pháp của ngài Đạo Minh Phổ Tịnh ban cho ngài Nhất Xương:
一昌法光明
塵掃鏡重圓
續焰傳付囑
如月印江天
Nhất xương pháp quang minh,
Trần tảo kính trùng viên.
Tục diệm truyền phú chúc,
Như nguyệt ấn giang thiên.
Dịch:
Nhất Xương đạo sáng rõ
Bụi hết gương tròn đầy
Nối lửa truyền trao phó
Như trăng in sông dài.
           (Nguyễn Lê Châu dịch)

Truy tìm tư liệu về ngài cũng chỉ biết đến thế. Trên bàn tổ còn có một thần chủ thờ ngài Hải Đức Hoằng Ân[2]. Vị này cũng không thấy tư liệu nào ghi chép lại, đành chỉ đề tên. Về phía tay trái bàn tổ có long vị của hòa thượng Chơn Nguyên. Ngài là đệ tử của hòa thượng Huệ Minh, trụ trì tổ đình Từ Hiếu. Có thể chùa Thiên Hòa một thời gian không có trụ trì, sau cung thỉnh được ngài Chơn Nguyên kế nghiệp. Ngài đứng ra trùng tu chùa[3] và xin ban biển sắc tứ. Sau khi hòa thượng Chơn Nguyên viên tịch, chùa do con cháu ngài quản lý. Hiện nay, chùa Thiên Hòa thuộc loại chùa tư.
Khi chúng tôi hỏi đến tư liệu hán nôm thì vị chủ chùa mang ra một quyển Lịch truyện tổ đồ giới thiệu là một tập tư liệu quí. Lật từng tờ đọc thì đúng là sách ghi chép về sự truyền thừa từ chư tổ đến hòa thượng Chơn Nguyên. Ở Huế, chỉ có Thiền Tôn là còn giữ một bản có nội dung tương tự như sách trên.

Văn bản gồm có tất cả 96 tờ, kể cả bài tựa. Sách được người bảo quản làm bìa bằng chất liệu giấy sắc phong màu vàng, bao bọc ni lông, có kẻ khung màu mực xạ, nền màu đỏ đề tên “Phật tổ lịch sử dung tượng”. Tờ tiếp theo có ghi bốn chữ lớn, theo thể chữ triện “Lịch truyện tổ đồ”. Bài tựa chiếm 3 tờ, mỗi tờ hai trang, mỗi trang 5 dòng, mỗi dòng 12 chữ, to, rõ, đẹp. Bài tựa do thiền sư Bản Quả Khoáng Viên[4] đời 32 dòng Lâm Tế chính tông tại chùa Báo Tư, Quảng Châu, Trung Quốc viết vào năm Khang Hi Tân Mùi (1691). Trên gáy của phần tựa chia làm ba khoảng, phần trên đề “Lịch truyện tổ đồ”, phần giữa đề “Tự” phần cuối đánh số tờ. Từ tờ thứ 4 cho đến hết chính là nội dung quyển sách. Trong một tờ được chia làm hai mặt, mặt đầu vẽ tranh Phật, chư tổ, mặt thứ hai ghi sơ lược hành trạng, cũng như các bài kệ, tán. Do đó, tờ 4a có tranh đức Phật Thích Ca theo kiểu niêm hoa vi tiếu của thiền tông. Tờ 4b dòng đầu ghi “Lịch truyển tổ đồ tán”, dòng thứ hai ghi tên người soạn văn bản là sa môn Đạo Mân[5] được sắc phong Hoằng Giác thiền sư ở chùa Hoằng Pháp trên núi Thiên Đồng, Minh Châu. Dòng thứ 3 ghi Thủy tổ Thích Ca Mâu Ni Phật. Đây chính là sơ lược lịch sử Phật Thích Ca, chiếm khoảng 3 tờ. Các mặt khắc chữ ở trong sách được kết cấu 9 dòng, số chữ mỗi dòng không thống nhất, có dòng 20 chữ, có dòng lên đến 23 chữ. Ở tờ 7b có khắc khung hình tròn, bên trong viết bốn đại tự “Phật pháp tăng bảo”. Tờ thứ 9 đến hết sách thì phía trước đề ảnh, phía sau viết nội dung. Sách họa được 79 bức hình và sơ lược hành trạng chư tổ. Vị cuối cùng là thiền sư Chơn Nguyên trụ trì chùa Thiên Hòa. Các bức tranh vẽ khá đẹp, chữ viết trong văn bản dưới dạng chữ chân phương.
Từ sự mô tả sơ lược văn bản, chúng ta sẽ tiến hành nghiên cứu một số vấn đề có liên quan đến văn bản học của tác phẩm. Trước hết, tác giả của sách chính là thiền sư Đạo Mân Mộc Trần. Ngài là sư ông của tổ Nguyên Thiều Thọ Tông[6], người đã phát triển kệ phái dòng Thiên Đồng tại Đàng Trong. Theo bài tựa sách cho biết thiền sư Hoằng Giác lúc ở núi Thiên Đồng đã biên soạn truyện Phật Thích Ca cho đến Mật Vân Viên Ngộ, có họa hình chư tổ. Còn phần tán ngữ, ngài sử dụng lại từ bản Bảo Tích lục. Không biết văn bản này có được khắc in không? Nhưng theo bài tựa thì sư đem cúng dường cho các chùa trên núi Thiên Đồng. Có thể những ngôi chùa này đều thuộc về dòng phái Bổn sơn kế thừa từ thiền sư Viên Ngộ. Cũng theo bài tựa cho biết Hòa thượng Nguyên Kỳ giáo hóa tại Nhật Bản có mang qua một bản, được môn nhân Tuyết Phong Nhất Công san khắc. Và mùa thu năm Tân Mùi (1691) ngài Nguyên Thiều có gởi một phong thư đến Quảng Châu, muốn khắc bản để lưu hành tại Đàng Trong. Do đó mà thiền sư Bản Quả, thầy bổn sư của Ngài Nguyên Thiều mới viết tựa gởi sang Việt Nam để khắc in. Đây chính là những thông tin quí giúp chúng ta xác nhận rõ tác giả của văn bản, cũng như quá trình lưu truyền văn bản tại hai nước Nhật Bản, Việt Nam.
Khi đã xác định rõ văn bản do thiền sư Đạo Mân viết chỉ đến truyện thiền sư Viên Ngộ thì dừng lại. Như thế thì phải có người tục biên thêm đến các tổ Việt Nam chứ? Đây chính là câu hỏi cần được giải đáp một cách rõ ràng để xác định người tục biên tác phẩm. Ở tờ 80b tức phần tục biên, truyện thiền sư Đạo Mân có nói ngài tổ 8 đời của quốc sư Từ Minh Liễu Triệt, chùa Giác Hoàng và tổ 11 đời của bổn sư Thanh Minh Tâm Truyền, chùa Diệu Đế, đệ tử Trừng Khiết Như Như đạo nhân[7] chùa Báo Quốc. Khi đối chiếu với hai bài kệ của tổ Vạn Phong Thời Ủy và kệ phái dòng Liễu Quán thì đúng với cách tôn xưng trên. Điều quí nhất chúng ta biết được là người tục biên đã tôn xưng ở ngôi thứ nhất tức dùng chữ đệ tử và nói về thầy mình dùng từ bổn sư. Qua đây, chúng tôi xác nhận Như Như đạo nhân chính là người tục biên quyển Lịch truyệt tổ đồ[8]. Điều này sẽ rõ ở truyện thiền sư Đại Sa Siêu Trường, bổn sư của ngài Minh Hoằng Tử Dung. Chúng tôi sẽ bổ sung một số ý kiến thêm vào luận điểm trên.
Sách tục biên nhưng chưa được thống nhất, bỏ qua hình ảnh và truyện thiền sư Bản Quả Khoáng Viên, từ thiền sư Đạo Mân đời 68 đến thiền sư Nguyên Thiều đời thứ 69 là chưa đúng, Nguyên Thiều phải là đời thứ 70 mới hợp lí trên cách thức ghi chép truyền thừa. Ở tiểu truyện thiền sư Nguyên Thiều, ở dòng thứ 2 bỏ một đoạn trống, từ “Tạ thị tử” bỏ khoảng đến “Bát nguyệt tuất thời sinh” là thiếu năm[9]. Đối chiếu với văn bia tháp tổ được thiền sư Liễu Chơn Từ Hiếu khắc lại cho biết: “Tạ thị tử, Mậu tý niên ngũ nguyệt thập bát nhật tuất thời đản sinh…” Như thế thì viết thiếu và có sai tháng.
Trong các tiểu truyện các tổ truyền thừa tại Việt Nam như ngài Minh Hoằng Tử Dung, Liễu Quán, Tế Nhơn, Đại Cận Phước Dương, Đạo Minh Phổ Tịnh, Tánh Thiên Nhất Định, chúng tôi thấy Như Như đạo nhân đã lấy lại từ sách Hàm Long sơn chí, quyển 3 có sửa đổi một số lỗi, lược bỏ một số đoạn nhỏ hoặc có thể ngược lại. Phần thiền sư Minh Hoằng Tử Dung có ghi thêm bài kệ truyền thừa dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Từ phần truyện thiền sư Hải Thiệu Cương Kỷ, Thanh Thái Huệ Minh và Chơn Nguyên thì không thấy chép trong sách Hàm Long sơn chí. Có thể sơn môn Từ Hiếu đã tục biên thêm hai vị trụ trì là Hải Thiệu và Huệ Minh. Rồi khi phái truyền về Thiên Hòa thì lại được hậu huệ thiền sư Chơn Nguyên chép thêm hành trạng của ngài vào sách.
Tại Huế, chùa Thiền Tôn còn có một bản Lịch truyện tổ đồ ghi chép có phần giống với sách tại chùa Thiên Hòa. Khi đến tổ Nhất Định thì hai bản chép khác nhau. Bản chùa Thiền Tôn chép tiếp đến hòa thượng Diệu Giác chùa Báo Quốc, thiền sư Thanh Ninh Tâm Tĩnh chùa Tây Thiên và truyện hòa thượng Giác Nhiên chùa Thiền Tôn. Còn bản chùa Thiên Hòa chép tiểu tuyện hòa thượng Hải Thiệu Cương Kỷ, hòa thượng Huệ Minh chùa Từ Hiếu và hòa thượng Chơn Nguyên chùa Thiên Hòa. Đây là sự khác nhau của hai bản, bởi vì hai chùa truyền thừa có sự tách biệt, sau lập làm hai phái là Từ Hiếu và Tây Thiên, nhưng có cùng một cội tại hai tổ đình là Báo Quốc và Từ Hiếu.
Bản Lịch truyện tổ đồ theo như ý khởi đầu của nó là sự ghi chép sự truyền thừa của pháp phái Thiên Đồng. Trong pháp phái đó, hai nhánh phát triển mạnh tại Đàng Trong, Việt Nam. Cả hai nhánh đều bắt đầu tư thiền sư Đạo Mân Mộc Trần. Nhánh thứ nhất từ thiền sư Bản Quả Khoáng Viên, Viên truyền cho Nguyên Thiều Thọ Tông. Từ thiền sư Nguyên Thiều có sự phân tách thành các chi phái nhỏ. Đệ tử của thiền sư Nguyên Thiều có sự truyền thừa đến ngày nay là các thiền sư như Minh Lượng Nguyệt Ân, Minh Vật Nhất Tri, Minh Giác Kỳ Phương, Minh Dung Pháp Thông. Chỉ có mình ngài Minh Hải Pháp Bảo là tự tục kệ truyền thừa tạo nên một pháp phái mới là phái Lâm Tế Chúc Thánh.
Phái thứ hai bắt đầu từ thiền sư Tuyết Giậu Chơn Phát truyền cho Đại Sa Như Trường (hoặc Siêu Trường), truyền cho ngài Minh Hoằng Tử Dung chùa Từ Đàm, truyền cho ngài Liễu Quán chùa Thiền Tôn. Ngài Liễu Quán lại tục kệ truyền thừa và hình thành nên phái Lâm Tế Liễu Quán phát triển mạnh ở Trung Nam. Bộ sách Lịch truyện tổ đồ của hai chùa Thiền Tôn và Thiên Hòa đều ghi chép về sự truyền thừa của Liễu Quán pháp phái. Do đó, đây là một tư liệu quí để nghiên cứu truyền thừa, hành trạng chư tổ tại Huế mà chưa được mọi người biết nhiều.
Tóm lại, Lịch truyện tổ đồ là một tư liệu hán nôm quí được trân tàng tại các chùa xưa. Mỗi khi nói đến truyền thừa tại các chùa, người ta mang ra xem thử mình thuộc dòng phái nào, biết được gốc tích tông phái, hiểu rõ hành trạng các tổ sư và xem hình ảnh chư tổ được sách phác họa. Chùa Thiên Hòa tuy là một ngôi chùa nhỏ trên vùng núi Dương Xuân xưa. Chùa còn giữ khá nhiều tư liệu hán nôm Phật Giáo, các ván khắc sớ điệp, các bản in áo giấy thờ cúng trong các dịp lễ dân gian. Cách thờ tự, hệ thống tượng, pháp khí đều có một giá trị nhất định. Trong tủ sách còn giữ khá nhiều các bản kinh, sách hán nôm và quyển Lịch truyện tổ đồ mà chúng tôi đã giới thiệu vài dòng về văn bản. Sách ghi chép rõ ba vị thiền sư Hải Thiệu, Huệ Minh và Chơn Nguyên, phương pháp viết tiểu sử có phần tiến bộ hơn các tiểu truyện do Đạo Mân, Như Như đạo nhân cung cấp. Do đó, chúng tôi xem đây là một tư liệu đáng nghiên cứu khi bắt tay tìm hiểu Phật Giáo thiền tông tại Huế.
                                       (Đã đăng trong Suối Nguồn, số 1, tháng 5/2010)
Tài liệu tham khảo:
1.     Lịch truyện tổ đồ, bản chép được lưu trữ tại chùa Thiên Hòa.
2.     Lịch truyện tổ đồ, bản chép, chúng tôi sử dụng bản pho to tại chùa Từ Đàm.
3.     Hàm Long sơn chí, do Điềm Tịnh cư sĩ và Như Như Đạo Nhân biên soạn, bản chép tay.
4.      Diệm Khẩu Du-già Tập Yếu Thí Thực Khoa Nghi, bản in năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), Chùa Thiên Hòa tàng bản. 
5.     Lịch sử Phật Giáo xứ Huế, Hà Xuân Liêm, Thích Hải Ấn, Nxb Thuận Hóa, 2006.


Chú Thích:
[1] Thần chủ đề: “Tào Động chính tông đệ tam thập bát thế, khai sơn Thiên Hòa tự trụ trì Khánh Thụy, hiệu Minh Tánh đại sư giác linh tọa vị”.
[2] Thần chủ đề: “Lâm tế chính tông đệ tứ thập thế, Thiên Hòa tự trụ trì húy Hải Đức hiệu Hoằng Ân đại sư giác linh tọa vị”
[3] Long vị đề: “Lâm tế chính tông đệ tứ thập nhị thế, sùng kiến sắc tứ Thiên Hòa tự  tăng cương húy thượng Trừng hạ Ngoạn hiệu Chơn Nguyên hòa thượng giác linh”.
[4] Bản Quả Khoáng Viên: hành trạng chưa rõ, sư chính là đệ tử của thiền sư Đạo Mân Mộc Trần, bốn sư của ngài Nguyên Thiều.
[5] Đạo Mân Mộc Trần thiền sư (1596-1674): vị tăng của Lâm Tế tông Trung Quốc, tự là Mộc Trần, thường gọi Sơn Ông, xuất thân Trà Dương, Hồ Châu, họ Lâm. Sư đến tham học và xuất gia với Nhã Vị Minh ở chùa Khai Tiên, Khuông Lô, sau đó đi tham  yết các bậc danh túc như Hám Sơn Đức Thanh…sau, sư đến tham vấn Mật Vân Viên Ngộ và kế thừa dòng pháp của vị nầy. Khi Viên Ngộ viên tịch, sư được cung thỉnh làm trụ trì Thiên Đồng sơn. Về sau, sư sống ở các nơi khác như chùa Linh Phong, chùa Vân Môn…Năm Thuận Trị thứ 16 (1659), sư được mời vào nội cung thuyết pháp và được ban tặng hiệu Hoằng Giác thiền sư. Ngày 27 tháng 6 năm Khang Hi thứ 13 (1674), sư thị tịch, thọ 79 tuổi, được 55 hạ lạp.
[6] Nguyên Thiều Thọ Tông thiền sư (1648-1728): sư quê huyện Trình Hương, Quảng Châu, Trung Quốc. Năm 19 tuổi, xuất gia với thiền sư Bản Quả Khoáng Viên tại chùa Báo Tư. Năm Đinh Tỵ (1677) sư vượt biển sang phủ Qui Ninh lập chùa Thập Tháp Di Đà. Sau sư ra Thuận Hóa, lập chùa Quốc Ân và tháp Phổ Đồng. Sau được chúa Nguyễn sắc phong trụ trì chùa Hà Trung. Ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (1728) sư viên tịch. Đồ chúng lập tháp tại xứ Cửa Hóa xã Dương Xuân phụng thờ.
[7] Như Như Đạo Nhân: ông sinh giờ Dần ngày 15 tháng 1 năm Tân Hợi (1851), thế danh là Nguyễn Phúc Hồng Vịnh, pháp danh Trừng Khế, con của Trấn Biên quận công Miên Thanh (1830- 1877), là đệ tử của thiền sư Tâm Truyền, chùa Báo Quốc. Ông được giao chức tri tạng chùa Báo Quốc. Ông có tục biên bộ Hàm Long sơn chí, Đào Trang tập (VHv.15).
[8] Đồng ý kiên với Hà Xuân Liêm, Thích Hải Ấn trong Lịch sử Phật Giáo xứ Huế.
[9] Bản chùa Thiên Tôn cũng chép y như bản Thiên Hòa. Như thế, có thể hai bản này chép ra từ một bản gốc, mà bản gốc đó lại bị hư mất phần năm sinh của tổ Nguyên Thiều.

Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2011

chỉ một mùa xuân 
truyện ngắn Trần Trung Ðạo

Tôi sinh ra và lớn lên trong một làng nhỏ nằm dọc theo một nhánh sông của sông Thu Bồn. Làng tôi có cái tên gọi dễ thương là làng Châu Hiệp theo nghĩa trong câu "Châu về hợp phố" nhưng mọi người thường biết dưới một tên khác quen thuộc hơn là làng Mã Châu. Sở dĩ làng được nhiều người biết đến vì nơi nầy nổi tiếng về nghề ươm tơ dệt lụa.
Làng tôi không lớn lắm, chỉ chừng vài cây số vuông, chạy dài từ giếng Tứ Trụ đến Chùa Ba Phong. Theo nhà thơ Trung Nhân, thì dù cùng uống nước chung một giếng nhưng dân ở bên nầy đường nói giọng khác dân ở bên kia đường. Tôi vẫn dặn lòng mai nầy có dịp trở về sẽ tìm cách kiểm nghiệm lời anh Trung Nhân kể. Tuổi thơ của tôi gắn liền với màu áo lam hiền hòa của Gia Đình Phật Tử, với những bài hát dễ thương, những cái gút, những tiếng còi, tiếng ve, những trò chơi lớn, những đêm lửa trại và cả tiếng chuông chiều, kinh tối của chùa Ba Phong, trung tâm sinh hoạt tinh thần cho cả làng.
Tôi còn nhớ ngày đầu tiên tôi gia nhập Gia Đình Phật Tử, cha tôi may một bộ đồ đoàn sinh gồm một chiếc áo lam và một quần ngắn có hai chiếc dây quàng tréo qua vai. Tính cha tôi hà tiện nên may phòng hờ khi tôi sẽ lớn hơn vẫn còn mặc được. Nhưng khổ nỗi ông lại quá lo xa nên bộ đồ đoàn sinh vừa rộng và cũng vừa dài trông chẳng khác gì mặc đồ người lớn. Nhất là cái quần. Quần ngắn mà trông chẳng khác gì quần dài. Trông thật chẳng giống ai. Tôi phản đối kịch liệt nhưng cũng biết đời nào ông ta chịu đem đi tiệm sửa ngắn lại. Và cứ thế, giống như bao nhiêu đứa bé khác trong làng, thời thơ ấu của chúng tôi được che mát dưới mái chùa Ba Phong của làng Mã Châu tơ lụa.
Nhưng mái chùa cũng chẳng che chở được bao lâu thì chiến tranh tràn đến. Làng Mã Châu không còn những ngày tháng thanh bình như trước. Những trận đánh lẻ tẻ đã diễn ra. Tiếng súng đêm đêm đã vọng về từ bên phía kia sông. Trong làng đã có vài thanh niên chết trận. Màu hỏa châu soi bói và đe dọa đã thay thế cho ánh trăng vàng thân thương quen thuộc. Nhiều đơn vị lính Mỹ từ Đà Nẵng đã đổ lên và thỉnh thoảng dừng lại ở làng Mã Châu vài hôm. Sự hiện diện của người Mỹ, ít nhiều, đã làm xao động nếp sống bình thường của dân chúng trong làng. Họ thiện cảm với người Mỹ thì ít mà nghi ngờ thì nhiều. Điều đó chẳng có gì lạ, kinh nghiệm để lại từ suốt mấy nghìn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam, chưa hề có một ngoại bang nào đến để thật sự giúp đỡ, khai hóa, nâng cao dân sinh, dân trí. Tất cả chỉ nhằm đồng hóa, nô lệ và bóc lột dân tộc tôi mà thôi. Nếu thực dân Pháp, trước đây, có xây một chiếc cầu, đắp một con lộ chẳng qua là để họ dễ dàng chuyển quân, để họ nhanh chóng trấn áp những cuộc nổi dậy của ông bà tôi. Nếu họ có xây một trường học cũng chỉ để gieo rắc ảnh hưởng thực dân vào tâm hồn Việt Nam. Nếu họ có mở ra những phong trào thể thao thể dục như giải "Đua xe đạp vòng Đông Dương", giải "Quần vợt Đông Dương", giải "Túc cầu Đông Dương" chẳng qua nhằm ru ngủ dân tộc Việt Nam, để ông bà tôi sống trên những hào quang giả tạo mà quên đi thân phận nô lệ của mình.
Trong gia đình Phật Tử chúng tôi, thì tôi và Hương là thân nhau nhất. Cô bé trạc tuổi tôi, cùng học một trường và cùng đi về chung một đường. Nói chung, ngoài khi ăn khi ngủ, chúng tôi chia xẻ nhau hết những thời gian còn lại. Chúng tôi đi chùa chung, học bài chung, tập hát chung. Hương thích nghe kể chuyện nhưng tôi cũng chỉ là một cậu bé thì biết chuyện gì mà kể. Cũng may tôi thuộc loại "cái miệng sinh ra trước cái đầu" nên bịa ra trăm thứ chuyện để làm vui lòng cô bạn nhỏ. Chuyện chẳng đâu vào đâu nhưng Hương bao giờ vẫn chăm chú nghe một cách thích thú.
Ba tôi cũng dành cho Hương một tình thương chân thành như tình thương dành cho người con. Có cái gì ngon ông cũng để dành cho cô bé một phần. Hương không có cha nên thường dùng những lời khuyên nhủ và sự săn sóc của ba tôi như một niềm an ủi tinh thần tự nhiên và cần thiết. Có lần tôi hỏi Hương có phải cha cô ta đã chết thì Hương lại lắc đầu, quay đi và trả lời là không biết. Tôi hỏi dì Năm, mẹ Hương, thì dì Năm cũng không trả lời, chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Tôi về nhà hỏi ba tôi thì ba tôi cũng không trả lời. Tôi cảm nhận ra có một chuyện gì đó không ổn về số phận của cha Hương nhưng vẫn không tìm đâu ra một lời giải đáp thỏa đáng. Còn tôi thì không có em gái nên bao nhiêu tình thương tôi chỉ dành cho Hương, một tình thương của tuổi thơ tự nhiên và thánh thiện.
Chiến tranh cũng đã hạn chế rất nhiều sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử chúng tôi. Không còn những đêm trăng sáng quây quần bên lửa hồng. Không còn những buổi đóng trại ở lại suốt hai ba ngày đêm. Đến những năm 1966, 1967 thì phần cuối của làng, trong đó có chùa Ba Phong, đã trở thành vùng tranh chấp. Chúng tôi vẫn đi chùa nhưng phải về nhà sớm hơn. Chúng tôi vẫn cấm trại vào những ngày lễ lớn nhưng trại thường bế mạc trước khi trời tối.
Một chủ nhật nọ chiến trận bùng nổ ác liệt. Cả đoàn chúng tôi, ngoại trừ các anh huynh trưởng, đều phải ở lại chùa đêm đó. Suốt đêm chúng tôi không ai dám ngủ, chỉ nằm sát dưới chánh điện, chờ cho trời sáng và ngưng tiếng súng để ra về. Có vài đoàn sinh sợ quá miệng không ngớt niệm hồng danh Đức Quan Thế Âm. Vài cu cậu khóc thét lên đòi mẹ. Khoảng nửa đêm thì một toán du kích Cộng Sản đột nhập vào chùa. Ánh sáng của chiếc đèn dầu nhỏ trên bàn thờ Phật không sáng lắm nhưng cũng đủ để biết là có người đeo súng đi vào phía chánh điện. Toán du kích đi vào chùa từng người như những bóng ma trơi trong truyện kinh dị. Hai chị huynh trưởng biết có chuyện nên ngồi dậy và bước ra phía trước. Tôi không nghe hai chị nói gì với họ nhưng sau đó thì một chị bước về phía Hương và khẻ lay Hương dậy. Chị dắt Hương đi về phía người du kích lớn tuổi, có vẻ là người chỉ huy của toán. Người du kích già nầy để súng xuống và ngồi bên cạnh Hương. Ông ta đưa tay vuốt tóc cô bé một cách trìu mến. Họ nói chuyện với nhau chừng vài phút, sau đó, tôi nghe tiếng Hương khóc lớn. Thế là sự thắc mắc bấy lâu nay về số phận của cha Hương đã được giải tỏa. Một hồi sau người du kích già đứng dậy và lặng lẽ ra đi. Hương trở về chỗ ngủ.
Sáng hôm sau hai đứa chúng tôi trở về nhà nhưng Hương không còn vui vẻ, tươi tắn như hôm trước nữa. Cô bé dường như đang bâng khuâng, lo sợ một điều gì.
Khi tôi lên mười bốn tuổi thì Hương cũng đã mười ba. Chúng tôi đã từ giã trường tiểu học Xuyên Châu để cùng lên Trung Học Duy Xuyên vài năm trước đó. Tình bạn giữa chúng tôi mỗi ngày cũng lớn lên cùng năm tháng. Mối quan hệ tự nhiên, vô tư và thánh thiện của thời thơ ấu cũng bị thời gian làm mất dần đi ý nghĩa. Hương dưới mắt tôi không chỉ là một cô gái nhưng còn là một cô gái đẹp. Hương đẹp thật. Cô bé có đôi mắt thật tròn, mái tóc học trò đen lánh trong chiếc áo dài lụa màu trắng ngà. Những cái đụng chạm chân tay dù vô tình cũng đã bắt đầy gây cho tôi những cảm giác nhẹ nhàng êm ái. Chúng tôi vẫn đi chung nhau một đường mỗi ngày hai buổi nhưng đã biết phải đi xa xa nhau một chút. Chúng tôi vẫn thường ra bờ sông coi bà con đào hến nhưng cũng đã bắt đầu thấy ngượng ngùng khi gặp một người khác có cái nhìn tò mò soi bói. Giống như tôi, Hương cũng đã bắt đầu biết ước ao, mơ mộng, xây dựng tương lai bằng những tháp ngà. Và chúng tôi cũng ý thức rằng bên kia khu vườn thơ mộng của tâm hồn hai đứa tôi là một bầu trời đầy mây đen và giông bão. Chiến tranh đã làm tuổi thơ Việt Nam già nhanh hơn tuổi tác của mình.
Ba tôi có ý định gởi tôi ra Đà Nẵng học và cũng đề nghị dì Năm dắt Hương đi Đà Nẵng ở luôn để tránh phiền hà, sách nhiễu và cũng để lo cho Hương ăn học an toàn nhưng bà ta không chịu. Mẹ Hương là một bà mẹ nhà quê truyền thống, khái niệm gọi là chọn lựa dường như không có trong suy nghĩ của bà.
Mùa Xuân năm 1968, các trận đánh nhau diễn ra ác liệt hơn. Đâu đâu cũng có đánh nhau. Súng lớn súng nhỏ nổ đinh tai nhức óc. Chúng tôi nằm ngay giữa mặt trận và chịu đựng suốt bốn ngày đêm liên tiếp. Với tôi, đây lần đầu tiên tôi xa Hương lâu nhất. Bốn ngày đối với tôi tưởng chừng như vô tận. Tôi chỉ mong trận chiến sớm tàn để còn đi gặp Hương. Ngồi trong góc hầm trú ẩn tôi thầm cầu nguyện cho Hương được bình an. Sau trận chiến nầy, tôi tự nói với mình, nhất định sẽ cố thuyết phục Hương cùng đi Đà Nẵng học với tôi như ba tôi đã hứa. Chúng tôi sẽ học thật giỏi và đỗ đạt thật cao. Một ngày thật đẹp trời chúng tôi sẽ trở về với thôn làng xinh xắn của chúng tôi, về với giòng sông Thu Bồn, với bến đò Chợ Vạn, với tình thương yêu của ba, của mẹ và của bà con thân thuộc. Hương sẽ là một cô giáo như cô bé thường mơ ước, và tôi sẽ là một kỹ sư xây dựng. Quê hương chúng tôi sẽ không còn tiếng súng, không còn tiếng khóc, chúng tôi sẽ gầy dựng lại quê hương từ muôn vàn đổ nát.
Đến khoảng mùng sáu tháng Giêng thì tiếng súng đã tạm yên. Ba tôi dường như cũng thông cảm cho tình bạn chúng tôi nên gật đầu đồng ý cho tôi đi sang nhà Hương. Trên đường đi tôi nghĩ thế nào cô bé cũng mừng đến khóc khi gặp lại nhau. Cả tuần lễ rồi chứ ít oi gì. Chúng tôi chưa bao giờ xa nhau lâu như thế. Chưa bước chân vào nhà tôi đã cất tiếng gọi Hương ơi thật lớn. Cánh cửa mở, dì Năm bước ra nhưng không có Hương theo sau như mọi ngày. Cả bầu trời như tối sầm lại khi dì Năm kể tôi nghe chuyện của Hương, trong khi rút đi, ba của Hương dắt Hương theo bất chấp lời van xin cầu khẩn của dì Năm. Lúc đó tôi mới để ý thấy đôi mắt dì Năm đỏ hoe. Chắc dì đã khóc vì nhớ Hương nhiều lắm.
Tôi chạy ra phía bờ sông. Dòng sông im vắng, không một bóng người. Tôi ngồi xuống bên bờ sông quen thuộc và ôm mặt khóc. Chỉ năm ngày mà quê hương tôi và cả cuộc đời tôi đã hoàn toàn đổi khác. Cuộc chiến đã biến thôn làng tuyệt vời của chúng tôi thành một nơi hoang tàn đổ cháy. Vắng bóng Hương, từ đó, dòng sông cũng trở nên cô độc.
Và tôi cũng ra đi. Ba tôi quyết định bỏ làng ra đi lánh nạn. Một buổi sáng mùa Xuân, sau khi giao nhà cửa lại cho một người bà con coi sóc, gia đình tôi đáp xe đi Đà Nẵng và sau đó thì vô Sài Gòn lập nghiệp. Thời hoa niên với mối tình, không hẳn nên gọi là tình yêu nhưng dĩ nhiên vượt xa ý nghĩa của tình bạn, đã bị cắt đứt trong một nốt nhạc buồn như thế.
Thời gian trôi qua, vết thương thời thơ ấu cũng nguôi ngoai dần. Cuộc sống mới và tuổi trưởng thành, dĩ nhiên, ít nhiều cũng làm phôi pha những ước mơ của thời thơ ấu. Có điều tôi không thể nào quên Hương được. Hương là chiếc bóng không rời trong thời hoa niên nhiều kỷ niệm của tôi. Sau ngày Cộng Sản chiếm trọn miền Nam, qua tin tức từ một số người quen từ ngoài Trung vào cho biết thì ba Hương đã trở thành bí thư Xã quyền uy và sang trọng. Nhiều người vào ra nhưng không hề nghe ai nói gì về Hương hay nghe Hương nhắc nhở gì đến tôi. Thời gian đồng nghĩa với lãng quên. Lòng người cũng đổi thay theo thời thế. Tôi nhiều lần tự nhủ như thế. Tôi viết cho cô ta vài lá thư nhưng vì tự ái nên viết xong thì lại xé bỏ. Hương bây giờ hẳn nhiên không còn là nữ đoàn sinh Gia Đình Phật Tử nết na xinh xắn của bảy năm về trước, không còn là Hương của thời đuổi bướm dọc bờ sông.
Thế nhưng còn đôi mắt, giọng nói, tiếng cười, vầng trán và nhất là tính tình nhu hòa đôn hậu của Hương thì sao. Ánh mắt và tính tình của Hương tôi tin rằng không ai có thể làm thay đổi được. Suy nghĩ như vậy nên tôi quyết định về quê gặp Hương một lần. Thành thật mà nói một phần cũng vì thôi thúc của kỷ niệm nhưng một phần khác cũng chỉ vì tò mò, muốn tận mắt nhìn thấy những đổi thay từ một con người con gái đã một thời gần gũi nhất của mình.
Tôi không ghé nhà ba của Hương nhưng tìm về căn nhà cũ với hy vọng mẹ Hương vẫn còn lui tới. Định bụng là nhờ dì Năm nhắn cho Hương đến để tôi thăm. Quả đúng như vậy, căn nhà vẫn còn đó. Dì Năm bước ra mở cửa. Dì già hơn nhiều và ngạc nhiên nhìn tôi một hồi như không thể nào tin còn có ngày tôi trở lại nơi nầy. Dì im lặng mở cửa và ra dấu mời tôi vào nhà.
Căn nhà khá tối nên dì phải thắp đèn dù trời chưa tối. Ngọn đèn vừa bật sáng là tôi cũng là lúc tôi cảm thấy mình vừa hụt chân rơi vào khoảng không vô tận. Một chiếc bàn thờ nhỏ đang thờ một cô gái chừng mười hai, mười ba tuổi trong chiếc áo trắng học trò. Người đó không ai khác hơn là Hương. Tấm hình nầy Hương chụp ở một tiệm ảnh ở Nam Phước khi cô bé vừa lên lớp sáu. Hương cũng tặng tôi một tấm hình như thế nhưng chẳng may bị lạc mất.
Hương chết thật rồi. Con chim họa mi nhỏ trong khu vườn thơ ấu của tôi đã chết. Theo lời dì Năm kể, ngày Hương bị ba của Hương bắt theo, và sau đó thì gia đình tôi cũng từ bỏ xóm làng ra đi nhưng dì vẫn một mình ở lại chịu đựng bom đạn để chờ ngày Hương trở lại. Thời gian vẫn trôi và Hương vẫn miệt mài tin tức. Mãi cho đến tháng 4 năm 1975, ba của Hương trở về với đoàn quân chiến thắng. Ông ta không ghé về nhà nhưng đóng quân ngoài quận lỵ. Dì Năm khó khăn lắm mới tìm gặp ông ta để hỏi thăm tin tức của Hương thì ông ta chỉ trả lời vỏn vẹn: "Con Hương hy sinh rồi". Bản thân ông ta cũng đã có vợ khác từ những ngày còn ở trong bưng. Quan hệ của họ từ đó chẳng còn gì với nhau nữa.
Dì Năm một mình về sống trong căn nhà cũ dột nát với tuổi già bóng xế, với hương hồn của đứa con gái duy nhất của bà. Bà không khóc dù đang kể lại quãng đời bi thảm của một kiếp làm người. Đôi mắt dì Năm như một dòng suối khô mùa hạ. Những giọt nước mắt cuối cùng của một bà mẹ Việt Nam đã nhỏ xuống cho đứa con thân yêu và cho quãng đời cơ cực của mình.
Tôi từ giã quê hương đau thương và khốn khổ của tôi để trở vào Nam. Xe chạy ngang cầu Câu Lâu. Bên kia đụn cát là nơi chôn giấu của chúng tôi mùa xuân thời thơ ấu. Mùa Xuân đó đã qua đi và sẽ không bao giờ trở lại. Những cụm lục bình, giống như số phận đầy bất hạnh của thế hệ chúng tôi, đang âm thầm trôi ra biển.


Trần Trung Đạo